Nghiên cứu - Trao đổi  

Điểm mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 65/2025/QH15

Cập nhật ngày 12/03/2025 09:24:30 AM - Lượt xem: 50

Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 65/2025/QH15 gồm 07 chương, 50 điều (giảm 93 điều); có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2025, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 50 của Luật; thay thế Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi các Luật; tổ chức chính quyền địa phương đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hải Phòng tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết của Quốc hội. Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 65/2025/QH15 có một số điểm mới sau:


Bổ sung chương mới về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp

Nhằm đẩy mạnh phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung Chương III: Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp với nhiều nội dung mới. Luật Tổ chức chính quyền địa phương là luật chung về phân quyền, phân cấp, việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, các cơ quan của chính quyền địa phương tại các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với quy định của Luật này, bảo đảm quyền lực nhà nước được kiểm soát hiệu quả (khoản 4 Điều 11). Luật bổ sung nội dung nguyên tắc cụ thể, rõ ràng về phân định thẩm quyền (khoản 2 Điều 11). Mở rộng văn bản quy định phân quyền gồm luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 1 Điều 12).

Văn phòng Chủ tịch nước công bố các Luật, trong đó có Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 65/2025/QH15

Nội dung phân cấp quy định rõ chủ thể và mở rộng đối tượng nhận phân cấp. Chủ thể phân cấp là UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện. Đối tượng nhận phân cấp là cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp mình hoặc UBND, Chủ tịch UBND cấp dưới; đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý. Đối tượng phân cấp được mở rộng, có thêm Chủ tịch UBND cấp dưới, đơn vị sự nghiệp công lập (Điều 13).

Mở rộng chủ thể nhận ủy quyền, UBND ủy quyền cho Chủ tịch UBND cấp mình hoặc Chủ tịch UBND cấp dưới. Bổ sung trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cá nhân ủy quyền (khoản 3 Điều 14); bổ sung trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhận ủy quyền thực hiện không đúng nội dung, phạm vi, thời hạn ủy quyền (khoản 4 Điều 14); bổ sung quyền đề nghị, việc sử dụng hình thức văn bản của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhận ủy quyền (khoản 5, 6 Điều 14).

Điểm mới trong nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được quy định theo 3 cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), không quy định theo mô hình chính quyền địa phương ở nông thôn, chính quyền địa phương ở đô thị như Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13.

Nhiệm vụ, quyền hạn HĐND cấp tỉnh được bổ sung quy định áp dụng thí điểm các chính sách đặc thù, đặc biệt, chưa được quy định trong pháp luật để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn sau khi đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép (điểm e khoản 1 Điều 15); bổ sung thẩm quyền quyết định chính sách trọng dụng nhân tài, chính sách thu hút, khuyến khích đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm việc tại địa phương phù hợp với điều kiện, khả năng ngân sách của địa phương (điểm i khoản 1 Điều 15).

Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Chín

Bổ sung quyền quyết định của Thường trực HĐND trong thời gian HĐND không họp (khoản 14 Điều 29). Cụ thể, trong thời gian HĐND không họp, Thường trực HĐND quyết định: biện pháp giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn; quyết định điều chỉnh dự toán, phân bổ tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách hằng năm và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất.

HĐND quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình bằng hình thức biểu quyết. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025, quy định đa dạng các hình thức biểu quyết của HĐND. “Việc biểu quyết có thể bằng hình thức trực tiếp, trực tuyến hoặc bằng hình thức phù hợp khác theo Quy chế làm việc của Hội đồng nhân dân.” (khoản 1 Điều 33).

Chủ tịch Ủy ban nhân dân không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân (khoản 2 Điều 34). Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bỏ quy định “Chủ tịch Ủy ban nhân dân được bầu tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.”

Luật bổ sung thẩm quyền của Thường trực HĐND xem xét, chấp thuận cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu HĐND trong thời gian Hội đồng nhân dân không họp và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất (khoản 3, 4 Điều 36)./.

Bài và ảnh: Phạm Minh Thủy

 

 

 


Tin liên quan
"Kỷ cương, trách nhiệm; tinh gọn, hiệu quả; chủ động, kịp thời; tăng tốc, bứt phá" thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2025
UBND tỉnh được tổ chức không quá 14 sở; UBND huyện không quá 10 phòng
Những nội dung mới cơ bản của Luật Công đoàn số 50/2024/QH15
Nghiên cứu bỏ cấp huyện và sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân thực hiện Luật Đầu tư công năm 2024
Chính phủ: Trình Đề án sắp xếp, tinh gọn hệ thống cơ quan thanh tra 2 cấp
Còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoàn thành kế hoạch vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025
Đón xuân mới, hướng về biển đảo quê hương
Chính sách nổi trội đối với cán bộ, công chức, viên chức
Các chính sách, nghị quyết do HĐND tỉnh Điện Biên ban hành có hiệu lực từ ngày 01/01/2025