I. Một số vấn đề chung về đoàn kết toàn dân tộc và Hệ thống chính trị ở nước ta
1. Đoàn kết các dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đoàn kết đại đoàn kết, thành công đại thành công; Người cũng có một câu thơ rất hay nói về đoàn kết: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
- Khái niệm: Đoàn kết có nghĩa là sự gắn kết bền chặt giữa các cá nhân với nhau trong một tập thể, là hội tụ lại, hợp lại một cách hiệu quả, "Kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung" không chia rẽ.
- Đoàn kết toàn dân tộc: nghĩa là tất cả các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài, những người yêu nước, kể cả những người đã “lầm đường, lạc lối” nhưng biết hối cải…đoàn kết lại.
- Dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết: Đại đoàn kết toàn dân tộc - di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm tồn tại và phát triển của dân tộc ta đã chứng minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều kết thành sức mạnh vô địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.
- Một số biểu hiện của mất đoàn kết:
Thứ nhất, do mâu thuẫn về lợi ích, đây là căn nguyên sâu xa dễ gây mất đoàn kết trong tổ chức, cơ quan, đơn vị. Vì xét đến cùng, mọi hoạt động của con người là nhằm theo đuổi những lợi ích nhất định. Nhưng lợi ích chỉ được khuyến khích, bảo vệ khi lợi ích đó không mâu thuẩn với lợi ích của Đảng, không làm tổn hại lợi ích tập thể, lợi ích của các thành viên trong tổ chức.
Từ thực tiễn cho thấy ở đâu mà cán bộ, đảng viên có hành vi vun vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích chung, thì sớm muộn tổ chức ấy cũng sẽ mất đoàn kết. Đã có một số cán bộ, đảng viên tìm cách “chạy chức, chạy quyền” để mưu lợi ích cá nhân - lợi ích về chính trị; việc này thường xảy ra trong các kỳ đại hội đảng bộ các cấp và chuẩn bị đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
Ở những cơ quan, đơn vị được giao nắm giữ về tài chính, tài sản, mà không tuân thủ nguyên tắc, thiếu công khai hay phân phối không công bằng, cũng dễ dẫn đến mất đoàn kết - mâu thuẫn lợi ích về kinh tế.
Thứ hai, do lề lối, phong cách làm việc thiếu nền nếp, khoa học. Khi các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, quy chế của cơ quan, đơn vị không được giữ vững, kỷ luật lỏng lẻo, thì một số cán bộ, đảng viên nảy sinh tuỳ tiện trong điều hành công việc, dẫn tới làm sai các nguyên tắc, chế độ. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến phát sinh mâu thuẩn giữa các cán bộ chủ chốt trong tổ chức.
Thứ ba, do thiếu dân chủ, công khai, minh bạch, nhất là các vấn đề liên quan đến kinh tế, chế độ, chính sách, công tác cán bộ… Khi những yêu cầu này không được thực hiện thì khó có thể quy tụ sức mạnh tập thể, phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ, đảng viên. Đây là môi trường nảy sinh căn bệnh quan liêu, gia trưởng, độc đoán. Từ đó tạo ra sự đố kỵ, thiếu hợp tác trong cán bộ chủ chốt, giữa cấp trên với cấp dưới và nhân viên dưới quyền.
Thứ tư, do việc bố trí sử dụng cán bộ không đảm bảo tiêu chuẩn cũng dễ gây mất đoàn kết nội bộ. Nếu người đứng đầu tổ chức mà phẩm chất năng lực yếu hơn người dưới quyền, lại mang nặng chủ nghĩa cá nhân, xa rời chủ nghĩa đạo đức cách mạng thì ở những tổ chức đó sẽ có những biểu hiện cán bộ, đảng viên không phục nhau, thiếu nhất trí cả về nhận thức và hành động, thậm chí mất đoàn kết nghiêm trọng là khó tránh khỏi. Nếu trong công tác cán bộ có biểu hiện “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, “thân quen, dòng họ” thì vô hình trung sẽ dung dưỡng cán bộ thiếu đức, thiếu tài.
-
Hệ thống chính trị ở nước ta
- Hệ thống chính trị là gì:
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống cấu trúc, chức năng với các cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm thực thi quyền lực chính trị.
- Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó hữu cơ bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị - xã hội (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam).
Quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, mà quyền lực này thuộc về Nhân dân. có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều 2, Hiến pháp năm 2013
Điều 94, Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Các quan hệ trong hệ thống chính trị Việt Nam, các quan hệ chính trị được xác lập theo một cơ chế chủ đạo là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực của Nhân dân giao cho để phục vụ Nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích rộng rãi của các giai cấp, tầng lớp xã hội, của toàn thể Nhân dân lao động và yêu nước Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Nhà nước tư bản chủ nghĩa: Theo thuyết tam quyền phân lập (ba quyền độc lập với nhau): Quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau.
Thuyết tam quyền phân lập là học thuyết về tổ chức bộ máy nhà nước tư sản - do Lôckơ, Môngtexkiơ, Ruxô sáng lập dựa trên quan điểm cho rằng phải hạn chế sự độc quyền bằng việc không tập trung quá nhiều quyền lực nhà nước vào tay một cơ quan nhất định, bằng sự kiểm soát và khống chế lẫn nhau giữa các hệ thống cơ quan nhà nước khác nhau.
Quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được giao cho các cơ quan khác nhau trong nhà nước: quyền lập pháp giao cho Nghị viện, quyền hành pháp giao cho Chính phủ, quyền tư pháp giao cho Tòa án.
Tam quyền phân lập là nhằm dùng quyền lực kiểm soát và kiểm chế quyển lực. Theo mô hình phân quyền của Môngtexkiơ không chấp nhận việc một cơ quan nhà nước đứng trên hoặc nắm trọn vẹn cả 3 quyền. Tư tưởng tam quyển phân lập đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản.
3. Mối quan hệ giữa đoàn kết và hệ thống chính trị
- Đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề quyết định đến vận mệnh của dân tộc, đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng.
- Đoàn kết là tập hợp toàn dân do hệ thống chính trị tổ chức (Đảng, mặt trận, nhà nước)
- Hệ thống chính trị nước ta trong từng giai đoạn lịch sử đều phát huy tốt khối đại đoàn kết toàn dân, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, và có một cơ đồ như ngày nay.
- Vấn đề mất đoàn kết đã trở thành vấn đề nóng của nhiều cơ quan từ Trung ương đến cơ sở
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị sắc bén, suốt cả cuộc đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong Đảng, các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân. Trong các tác phẩm của mình, Bác có tới trên 400 bài nói và bài viết về đoàn kết. Tư tưởng về đoàn kết của Người được thể hiện nổi bật là: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quyết định thành công của cách mạng Việt Nam
Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa đoàn kết và thành công. Có đoàn kết mới có thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao nhiêu lại càng cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu.
Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
2. Lực lượng và hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả người đã lầm đường, lạc lối nhưng biết hối cải trở về với nhân dân.
Hình thức tổ chức lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập với những tên gọi phù hợp như: Hội Phản Đế Đồng Minh (năm 1930), Mặt trận dân tộc thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (năm 1936), Mặt trận dân chủ Đông Dương (1938), Việt Nam độc lập đồng minh hội (gọi tắt là Việt Minh) (1941); Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là hội Liên Việt) (1946), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam (1968), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977 đến nay).
3. Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc
Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị Đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc, tháng 1 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây.
Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc:
Thứ nhất, tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân để đoàn kết toàn dân
Thứ hai, đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo.
Thứ ba, đoàn kết trên cơ sở hiệp thương dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái, đoàn kết gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình.
Thứ tư, đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc.
4. Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết, cần tuyên truyền vận động nhân dân.
Phải chăm lo xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng Cộng Sản là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng phải đề ra đường lối đúng đắn. Trong Đảng đoàn kết, thống nhất từ tư tưởng đến hành động; có kỷ luật, tự giác, nghiêm minh; thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Mỗi đảng viên phải thật sự là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Về Nhà nước: Đảng phải làm cho Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân. Không ngừng cải cách bộ máy hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước quản lý bằng pháp luật. “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, đường lối thiết thực, rõ ràng; hình thức tổ chức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, các ngành, các giới, các dân tộc, tôn giáo… để toàn dân tộc có thể tham gia xây dựng và thực hiện tốt đường lối, chính sách, của Đảng, Nhà nước.
5. Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc và là đức tính cơ bản của người cách mạng
Người căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Đối với toàn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Để đoàn kết nhất trí, cán bộ lãnh đạo cần phải cần, kiệm, liêm, chính; Kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí, hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của Nhà nước.
Đối với mỗi đảng viên, “Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống cùng chết, chung sướng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết.
Thứ nhất, phải chống bệnh hẹp hòi. Từ hẹp hòi mà sinh ra kéo bè kéo cánh, bè phái. “Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống.
Thứ hai, phải chống chủ nghĩa cá nhân. Những người có tư tưởng này, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ, đảng viên sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa; tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành; tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, xa rời thực tế, quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền.
“Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay”.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
1. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân thông qua hệ thống chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng, Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, bằng công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát và bằng sự tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Để hoàn thành sứ mệnh của đảng cộng sản cầm quyền, cần tập trung xây dựng Đảng trên các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức. Trong đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một yêu cầu tất yếu, khách quan.
Trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội. Tổ chức đảng và mỗi cán bộ đảng viên ở các cấp, giữ các chức vụ đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng. Việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.
(1) Xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng: Phải dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị và tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Đảng phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn mối quan hệ đặt ra giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo.
Nội dung xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng bao gồm: đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị… Trong đó, đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng.
(2) Xây dựng Đảng về tổ chức
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thực sự chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Trong hệ thống đó, chi bộ đóng vai trò là hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và giám sát đảng viên; có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
Về công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Người yêu cầu: “Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy có xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo như thế rất có hại”.
(3) Xây dựng Đảng về đạo đức
Đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt là phải vừa có đức, vừa có tài, Người nhấn mạnh, trong đó, đạo đức là gốc: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Cần nắm rõ ba nguyên tắc:
Một là, Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, chống giáo điều và xa rời nguyên tắc. Trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân, dân tộc Việt Nam và của nhân loại tiến bộ. Đảng gắn bó với dân, là người lãnh đạo đồng thời là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Hai là, Trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính; chí công vô tư; yêu thương, quý trọng con người; có tinh thần quốc tế trong sáng.
Ba là, nói đi đôi với làm, nêu cao đạo đức; tu dưỡng đạo đức suốt đời; xây dựng đạo đức đi đôi với chống lại những hiện tượng phi đạo đức.
Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng gồm 5 nguyên tắc: Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Nguyên tắc tự phê bình và phê bình; Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác; Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng.
(1) Nguyên tắc tập trung dân chủ là thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa “tập trung” và “dân chủ”.
(2) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
(3) Nguyên tắc tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến bộ. Cán bộ chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu tự phê bình, phê bình. Tuyệt đối chống các biểu hiện như: thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, hoặc lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.
(4) Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu tự thân đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân.
(5) Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, nói và làm theo Nghị quyết
2. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
2.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, nhà nước do dân và nhà nước vì dân
Nhà nước của dân là tất cả mọi quyền lực nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do dân là nhà nước do dân tạo - và nhân dân tham gia quản lý. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”.
Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu. Tất cả đều vì lợi ích của nhân dân; ngoài ra, không có bất cứ một lợi ích nào khác.
Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ: Hoạt động quản lý nhà nước phải bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống. Người cũng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm việc thực thi quyền lực của nhân dân, trong đó, khẳng định vai trò của pháp luật
2.2. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc VN và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh
- Mặt trận Tổ quốc là trung tâm
- Các đoàn thể chính trị xã hội (thành viên): Đoàn thanh niên CSHCM, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Liên đoàn lao động….
IV. Bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
1. Bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng
Thực tiễn cách mạng Việt Nam 90 năm qua là hiện thực sinh động khẳng định nội dung phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là một bài học, nguyên tắc căn bản trong đường lối cách mạng của Đảng. Sự đoàn kết, đồng lòng của cả dân tộc chính là nguồn lực mạnh mẽ đưa đất nước vượt qua nhiều thời điểm khó khăn, khắc nghiệt, để lại những dấu ấn hào hùng trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới.
Ngay từ khi Đảng mới ra đời, Đảng đã chủ trương đoàn kết mọi lực lượng thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Bản Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch trần vạch ra sự cần thiết phải xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng, khơi dậy lòng yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thời kỳ cách mạng 1930 - 1945, tổ chức mặt trận dân tộc đã được Đảng ta thiết lập, lãnh đạo. thành lập Mặt trận Việt Minh, chủ trương “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu thế chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành quyền độc lập cho dân tộc, lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc (1945 - 1975), truyền thống đoàn kết của dân tộc được nâng lên tầm cao mới, trở thành động lực và sức mạnh chủ yếu của dân tộc. Khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được mở rộng và tiếp tục phát triển, góp phần động viên toàn dân lập nên Chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và những thắng lợi của nhân dân hai miền Nam-Bắc, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, chấm dứt 21 năm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).
2. Bài học về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Phải xây dựng Đảng thành một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, “Để đảm đương được vai vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Nghị quyết Trung ương 4 về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Nghị quyết Trung ương 6 về “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong thời gian qua, rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế.
Ba là, kết hợp giữa “xây” và “chống”. “Xây” là công việc thường xuyên, cơ bản, lâu dài, xuất phát từ nhu cầu không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền, Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân. “Chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, bởi trước tình trạng suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phải có giải pháp đủ mạnh, xứng tầm để ngăn chặn, đẩy lùi, tạo môi trường cho phát triển bền vững.
Bốn là, đi đôi với giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải tôn trọng, phát huy đầy đủ tính chủ động, tích cực của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định bảo đảm thành công của xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Năm là, huy động, lôi cuốn, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, phải “đưa chính trị vào giữa dân gian”. Có nhiều kênh phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong đó cần đặc biệt coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
V. Những vấn đề đặt ra về đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay.
1. Những vấn đề đặt ra về đại đoàn kết toàn dân tộc
- Mặt trái của kinh tế thị trường, tác động đến đại đoàn kết các dân tộc
- Sự phân hóa giàu nghèo có chiều hướng gia tăng đã và đang ảnh hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc. Cùng với sự chuyển hóa của các giai cấp và tầng lớp xã hội, xuất hiện sự chênh lệch ngày càng lớn về mức thu nhập và hưởng thụ giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp nhân dân…
- Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tiếp tục khai thác những thiếu sót, yếu kém của đất nước ta hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Các giải pháp: là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của toàn dân. Do đó, qua hoạt động của mình, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn luôn bền chặt, ý Đảng và lòng dân là một.
Kiên trì thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, khoan dung, cùng nhau hợp sức xây dựng cho được một xã hội đồng thuận cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định, phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
2. Những vấn đề đặt ra về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh chi phối tính chất, mục tiêu nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động các tổ chức của hệ thống chính trị chính là thước đo năng lực lãnh đạo, uy tín, vị thế, địa vị cầm quyền của Đảng.
Tuy nhiên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm: Năng lực dự báo, định hướng, chính sách, thể chế hóa, cụ thể hóa để tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, còn khoảng cách với đòi hỏi của thực tiễn. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới.
Bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hóa, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Quản lý, giáo dục đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa cao. Chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu, thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên nhiều nơi thiếu nền nếp, chưa trở thành ý thức tự giác.
Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có nơi nghiêm trọng.
Để tiếp tục xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở chuẩn hóa, có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở./.
Nhữ Văn Quảng, UVTT - Trưởng Ban văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh